BÀN
VỀ THƠ ĐƯỜNG LUẬT (BÙI CÔNG LƯƠNG Biên soạn )
Trước hết cần phân biệt thơ Đường (Đường thi ) và thơ Đường luật.
Thơ Đường là những bài thơ đã được sáng tác ở
thời nhà Đường (Trung Quốc ) ,bao gồm cả thơ theo luật Đường và thơ cổ thể.
Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất
hiện từ đời nhà Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể (kim thể ) để đối lập với thơ cổ thể, không
theo cách luật ấy,luật không chặt chẽ.
Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên
từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo
luật Đường.
Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt
vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể
thơ dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời
nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người
trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức
tạp được thể hiện ở 5 điều nghiêm khắc sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục.
Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này. Đường luật thất ngôn
bát cú (7 chữ, 8 câu )là dạng chuẩn của thể thơ Đường luật.Dưới đây là những qui tắc chính :
1.Luật (qui định về bằng trắc trong một câu)
Điều căn bản của luật thơ Đường là đối, đó là
hai nguyên tắc đối âm và đối ý. Nghĩa là lần lượt những chữ thứ nhất, thứ 2,
thứ 3, ... của câu trên phải đối với các chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3, ... của
câu dưới cả về âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy
ước Nhất tam ngũ bất luật (chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật).
Riêng chữ thứ 5 nên ngược thanh với chữ cuối 7.
Luật
thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7
trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay
không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng
thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc
thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6
phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu
chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại.
Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất
luật".
Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng
xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ
"tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh
trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú
luật trắc.
Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và
Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ
"B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để
trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:
+ Luật vần bằng(bằng khởi luật-luật bằng) :
tiếng thứ hai câu đầu là bằng.
• Thất
ngôn tứ tuyệt .Ví dụ: Mời trầu của Hồ
Xuân Hương
Câu số Vần
1 B T B B Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
2 T B T B Này của Xuân Hương mới quệt rồi
3 T B T T Có phải duyên nhau thì thắm lại
4 B T B B Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Chữ thứ1 2 3 4 5 6 7
• Thất
ngôn bát cú .Ví dụ: Thương vợ của
Trần Tế Xương
Câu số
Vần
1 B T B B Quanh năm buôn bán ở mom sông
2 T B T B Nuôi đủ năm con với một chồng
3 T B T T Lặn lội thân cò khi quãng vắng
4 B T B B Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
5 B T B T Một duyên hai nợ âu đành phận
6 T B T B Năm nắng mười mưa dám quản công.
7 T B T T Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
8 B T B B Có chồng hờ hững cũng như không!
Chữ thứ1 2 3 4 5 6 7
+Luật vần trắc (trắc khởi luật-luật
trắc) :tiếng thứ hai câu đầu là trắc.
• Thất
ngôn bát cú .Ví dụ: Nhớ bạn phương
trời của Trần Tế Xương
Câu số
Vần
1 T B T B Ta nhớ người xa cách núi sông
2 B T B B Người xa, xa lắm nhớ ta không
3 B T B T Sao đương vui vẻ ra buồn bã!
4 T B T B Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
5 T B T T Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
6 B T B B Khi riêng, riêng cả đến tình chung
7 B T B T Tương tư lọ phải là trai gái,
8 T B T B Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Chữ thứ1 2 3 4 5 6 7
2.Niêm. (qui định
về băng trắc trong hai câu )
Hai câu trong một bài thơ Đường giống nhau về
luật (thanh )thì được gọi là niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được
hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ
nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc,
thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là
cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là
"thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn
(thất ngôn bát cú) như sau:
• câu
1 niêm với câu 8
• câu
2 niêm với câu 3
• câu
4 niêm với câu 5
• câu
6 niêm với câu 7
Chẳng hạn với luật vần bằng(chữ thứ 2-4-6 ):
Vần
Câu
thứ 1. - B - T - B B
2. - T - B – T B
3. - T - B – T T
4. - B - T – B B
5. - B - T – B T
6. - T - B - T B
7. - T - B - T T
8. - B - T –B B
Chữ thứ 2 4
6
Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, câu thứ 2 và thứ 3 niêm với nhau:
Cỏ cây
chen đá lá chen hoa
Lom khom
dưới núi tiều vài chú
3.Vần
Vần là
những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm
điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn(8 câu ), vần được dùng tại cuối
các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau".
Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về
vần thì được gọi "thất vận".
Những chữ
có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần
giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng,
nhưng cũng có các ngoại lệ.
Ví dụ: hai
câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới
đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen
đá, lá chen hoa
hai chữ
"tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là
"vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.
4.Đối .
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý
nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng
"đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ
đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ
ngữ. Đối chữ : danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh; trên
đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh...Đối thanh : các thanh cần đối với
nhau,bằng đối với trắc và ngược lại. Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4
không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi
tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ
mấy nhà
"Lom khom" đối với "lác
đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn
chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình),
song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác
đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về
cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách
dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác
đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối
với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của
hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt
Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.
5.Bố cục
Bố cục một
bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4
phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu
trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển
tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ
ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực.
"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu
"thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp".
Thơ thất
Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người
xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng
họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê
hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật
rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề,
Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ
liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy
nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về
mặt ý nghĩa.
Một quan
niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan
niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn
bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố
thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo
và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần
nhắc đến quan điểm “Cảnh-Tình” của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn
bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và
bốn câu dưới nặng về tình.
Hiện nay,
các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố
tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng
quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám
sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc
của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua
đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục
1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
Ngoài ra, còn một số lỗi dễ mắc phải khi làm thơ Đường luật
như: khổ độc, phong yêu, hạc tất ,điệp vận, mạ đề …không quan trọng lắm nhưng
nên rút kinh nghiệm để bài thơ hay hơn.
6.Một số dạng thơ Đường luật.
Thất ngôn
bát cú là dạng chuẩn của thơ Đường luât . Ba dạng khác cũng xuất phát từ dạng này nhưng không bắt buộc phải đối:
-Thất
ngôn tứ tuyệt
Thực chất
là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu
cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai
câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần"
mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.
Ví dụ: bài
thơ sau của Quách Tấn
Từ buổi
thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng
bến cũ biệt mù tăm
Cảm thương
chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ
tình xưa ghé đến thăm
-Ngũ
ngôn tứ tuyệt
Thực chất
là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn
giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần. Ví dụ: từ bài trên mà thành:
Thuyền đưa
khách thuận dằm
Bến cũ biệt
mù tăm
Chiếc lá
bay theo gió
Tình xưa
ghé đến thăm
-Ngũ
ngôn bát cú
Cũng là từ
bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và
vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.
Còn nhiều dạng trực thuộc
và biến thể của Thơ nôm luật Đường ,các bệnh thường mắc... sẽ bàn vào dịp khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.