Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2015

BÀN VỀ MỘT SỐ THỂ THƠ (TÓM TẮT)



                BÀN VỀ MỘT SỐ THỂ THƠ (Tóm tắt)

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG.
1.Từ,chữ,tiếng.Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm,mỗi chữ chỉ có một âm tiết,theo truyền thống gọi là tiếng.Một từ gồm một hoặc nhiều chữ (hoa,quả,hoà bình,ăn nói,bất thình lình,…).Một chữ có hai cách hiểu: chỉ một chữ cái (a,b,c) cũng gọi là một chữ; nhiều chữ cái ghép lại, phát âm được cũng gọi là một chữ, khi đọc lên,đó là một tiếng. Chữ chỉ là một hình thái thể hiện của tiếng. Vì thế, trong một văn bản(văn,thơ ) tiếng  Việt nên gọi là tiếng cho khỏi nhầm lẫn.
Một âm tiết có thể là một từ đơn (khi nó có nghĩa ). Mỗi âm tiết có thể có 1 đến 5 yếu tố:âm đầu,âm đệm,âm chính ,âm cuối và dấu thanh,trong đó không thể thiếu âm chính là nguyên âm.
2.Thanh,còn gọi là thanh điệu ,thể hiện bằng dấu thanh .Có 2 nhóm thanh:
-Thanh bằng (bình thanh) gồm thanh ngang (không dấu-phù bình, đoản bình thanh) và thanh huyền (dấu huyền-trầm bình ,trường bình thanh).
-Thanh trắc gồm 4 thanh thể hiện bằng các dấu  sắc, hỏi, ngã, nặng.
-Luật biến thanh của tiếng Việt  là:  huyền-ngã-nặng, hỏi-sắc- ngang. Ví dụ:ngẩn ngơ,ngẫn ngờ,xào xạc,xao xác,lạnh lẽo,vất vưởng…
   Tiếng Trung Quốc chỉ có 5 thanh : đoản bình=thanh ngang,trường bình=thanh huyền. Ba thanh trăc là  thượng , khứ , nhập không giống hoàn toàn nhưng phù hợp với nhóm thanh trắc của ta.
3. Vần. Vần có hai nghĩa:
-Vần trong cấu tạo của tiếng ,gồm âm đệm,âm chính và âm cuối,goi là âm vận,vận mẫu hay khuôn vần (anh,oan,uyên…)
-Vần là hoà  kết phần vần giữa các tiếng trong  thơ ca,bao gồm cả âm dầu và thanh điệu,còn gọi là hiệp vần.
Nêu lây tiếng cuối câu làm vần thì gọi là vần chân (cước vận).Nếu lấy một trong những tiếng khác trong câu làm vần thì gọi là vần lưng (yêu vận ).
4. Nhip .Nhịp thơ là một phần câu thơ gắn với ngữ nghĩa và có thể ngắt hơi khi đọc,gọi là ngắt nhịp.Nhịp ¾ nghĩa là câu thơ có 7 tiếng thì ngắt nhịp ở sau tiếng thứ 3. Còn ngữ điệu là thủ pháp khi đọc , ngâm toàn bài thơ:cao thấp,nhanh chậm,ngắt ngân...
5.Khổ thơ.Sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm,thống nhât với nhau về vần,nhịp, cú pháp ,ngữ điệu.Các khổ cách nhau bằng một khoảng nghỉ dài.Trong khổ thơ thường chỉ có một cách hiệp vần.Còn đoạn thơ là tập hợp của những câu thơ biểu thị một ý hoàn chỉnh,không lệ thuộc vào vần ,nhịp, cú pháp,ngữ điệu như khổ thơ.Một đoạn thơ có thể gồm nhiều khổ thơ.
I.THƠ LỤC BÁT.
 Bài thơ lục bát  có từ hai câu trở lên. Trong đó cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục và câu bát rồi đến cặp câu khác.Thường két thúc bài bằng câu bát.
1.Luật thanh trong thơ lục bát .Mỗi  câu thơ  tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ .
 -Tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó, nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là          Bằng (b) - Trắc (t) - Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là       Bằng(b)-  Trắc(t) – Bằng(b)-Bằng(b)            
Ví dụ:               Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân                   b-t-b
                Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều      b-t-b-b
                                 (Truyện Kiều )
   Ngoại lệ :  -Khi câu lục ngắt nhịp ở giữa thì tiếng thứ hai câu đó có thể mang thanh trắc.Ví dụ:
                     Mai cốt cách,tuyết tinh thần   
             Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười …
                   Người nách thước,kẻ tay dao  
             Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi …
                                 (Truyện Kiều )
    Những trường hợp này mà dùng tiểu đối thì câu thơ uyển chuyển hơn.
               - Trường hợp tiếng thứ sáu câu lục trên vần với tiếng thứ tư (thanh huyền) của câu bát dưới, thường thấy trong ca dao ,gọi là lục bát biến thể.Ví dụ:             
     -Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
             -Với lục bát dân gian(ca dao) và lục bát hiện đại thì luật bằng trắc linh hoạt hơn,câu thơ nghe êm tai là được.
            -Trong một bài thơ,số câu ngoại lệ càng ít càng hay.
2. Cách gieo vần trong thơ lục bát
    Thơ lục bát có cách gieo vần khác với nhiều thể thơ khác. Có cả vần chân và vần lưng.Có nhiều vần được gieo trong bài thơ dài chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thể lục bát tính linh hoạt về vần.
Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu (vần lưng) của câu bát kế nó. Tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp.
Ví dụ:          Trăm năm trong cõi người ta
             Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
                    Trải qua một cuộc bể dâu
           Những điều trông thấy mà đau đớn lòng 
                           (Truyện Kiều)  
         -Cần tránh phong yêu,điệp vân,tức là tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 câu bát cùng một vần,mà quá 5 câu mới nên lấy lại vần đó. Ví dụ:
     Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau cái đầu
3.Cách ngắt nhịp: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta dùng nhịp lẻ  là nhịp 3/3.

II. THƠ SONG THẤT LỤC BÁT
Thơ song thất lục bát là thể thơ có cấu trúc khổ 4 câu  liền nhau, trong đó hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.
Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn như  thơ lục bát, không đề cập đến. Chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như thơ Đường luật mà lại áp dụng vào các tiếng 3-5-7.
Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là t-b-t
Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là b-t-b
Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
Ví dụ:              Thưở trời đất nổi cơn gió bụi                     t-b-t
                         Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên      b-t-b
        Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
   Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
   Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây …
                     (Chinh phụ ngâm )            
  Cách gieo vần rất  đa dạng. Không chỉ gieo vần ở thanh bằng mà ở cả thanh trắc, có cả vần chân và vần lưng,một bài thơ có nhiều vần, câu nào cũng mang vần.
Tiếng thứ 7 của câu thất 1 (thanh trắc) vần với tiếng thứ 5 (thanh trắc) của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2( thanh bằng) vần với tiếng thứ 6 (thanh bằng) của câu lục kế tiếp.
Trong bài thơ dài ,để nối các nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp (Xem ví dụ trên ).
Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất thường là nhịp lẻ trước, tức là nhịp 3/4  hoăc 3/2/2.

III. THƠ ĐƯỜNG LUẬT (thất ngôn bát cú và tứ tuyệt )
 Cần phân biệt: Thơ Đường hay Đường thi là những bài thơ theo luật Đường đã được sáng tác ở thời nhà Đường (Trung Quốc ). Còn thơ Đường luật là thể thơ sáng tác theo luật Đường (bằng chữ Hán,Hán-Việt hay chữ Việt ) ở mọi thời kì.
-Thất ngôn=7 tiếng,Ngũ ngôn=5 tiếng,bát cú= 8 câu,tứ tuyệt hay tuyệt cú = 4 câu.
-Thể thơ này thường dùng vần chân là vần bằng.Vân trắc khó làm và cũng ít người làm.
-Thất ngôn bát cú là thể "chuẩn "của thơ Đường luật.4 yêu cầu cơ bản của thể thơ này là Niêm,luật,vần,đối;trong đó Đối là yêu cầu khắt khe,nghiêm chỉnh và khó nhất.Ngoài ra còn các "bệnh" dễ mắc phải như  phong yêu,hạc tất,bình đầu,tịnh cước...,khi làm thơ cần tránh.
-Thất ngôn bát cú Đường luật làm theo luật bằng, vần bằng. Luật bằng là luật thơ Đường mà tiếng thứ hai câu đầu là thanh bằng, vần bằng ở cuối câu.Ví dụ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
(Thương vợ -Trần Tế Xương)

- Thất ngôn bát cú Đường luật làm theo luật trắc ,vần bằng.Luật trắc là luật thơ Đường mà tiếng thứ hai câu đầu là thanh trắc, vần bằng ở cuối câu.Ví dụ :

Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.
                    (Bạn đến chơi nhà- Nguyễn Khuyến)

-Thất ngôn bát cú Đường luật  làm theo luật bằng,vần trắc . Ví dụ :
                           
Xuôi dòng Tô lịch bên bờ trái
Đường Láng thảm hoa liền một dải
Dãy dọc tòa ngang mấy dặm hoài
Đường thông cầu nối hai bờ lại
Ngọc Phan,Ngọc Phách* bậc văn tài
Thái Thịnh ,Thái Hà* tầm hiện đại
Kinh tế an ninh vững cả hai
Thiên thời địa lợi đều ưu đãi
  (Láng Hạ đổi mới-  Bùi Công Lương)

1. Về ngắt nhịp:
 Thường ngắt nhịp phối hợp chẵn trước,lẻ sau : 4/3 hoặc 2/2/3.

2. Về luật (bằng ,trắc trong mỗi câu ):
Luật bằng trắc được thể hiện như sau(B- bằng,T- trắc ):
+ Thơ luật bằng vần bằng:
b   B   t   T   t   B  B
t    T   b  B   t   T  B
t    T   b  B   b  T  T
b   B   t   T   t   B  B
b   B   t   T   b  B   T
t    T   b  B   t   T   B
t    T   b  B   b  T   T
b   B   t   T   t   B   B

+ Thơ luật trắc vần bằng:
t    T   b  B   t    T  B
b   B   t   T   t    B  B
b   B   t   T   b   B  T
t    T   b  B   t   T   B
t    T   b  B   b  T  T
b   B   t   T   t   B   B
b   B   t   T   b  B   T
t   T   b   B   t   T   B

Chú ý: Tiếng thứ 2, 4, 6 (chữ in hoa) buộc phải theo đúng luật bằng trắc, tiếng thứ 1, 3, 5 (chữ in thường) có thể linh động: “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”.

3. Về niêm (gắn kết giữa các câu ):
Niêm là sự liên lạc, gắn kết về âm luật của hai câu thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ 2 của 2 câu cùng là cùng bằng, hoặc là cùng trắc. Những cặp sau đây trong thất ngôn bát cú Đường luật niêm với nhau: 1-8, 2-3, 4-5, 6-7. Không niêm theo đúng luật gọi là thất niêm.
  Ta thấy, về cấu trúc : Câu 1,câu 4 và câu 8 giống nhau.
                                       Câu 2 và câu 6 giống nhau.
                                       Câu 3 và câu 7 giống nhau.
                                       Câu 5 hoàn toàn khác biệt
4. Về hiệp vần:
Vần chân, độc vận, vào tiếng cuối ở các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Nếu 2 câu đầu đối nhau thì tiếng cuối câu thứ nhất là thanh trắc

5. Nhận xét về bố cục:Từ câu đầu trở xuống,cứ 2 câu gọi là một liên (gồm câu trên và câu dưới )
+ Hai câu đề: câu 1: phá đề, câu 2: thừa đề.
+ Hai câu thực: câu 3 và 4 đối nhau, dùng giải thích rõ đề.
+ Hai câu luận: câu 5 và 6 đối nhau, dùng bàn luận về đề.
+ Hai câu kết: câu 7 và 8 tóm tắt ý nghĩa cả bài.
Hai cặp câu thực và luận có khi theo mạch thơ mà không phân  biệt.

Ghi chú : Thơ thất ngôn, ngũ ngôn tứ tuyệt luật Đường được coi như bài thơ 4 câu được cắt ra từ bài thơ bát cú nên cũng tuân theo luật trên.Việc cắt,xếp phải theo qui tắc : cắt cả liên ( 2 câu ),sắp xếp từ trên xuống.Có thể kết hợp nhiều cách nhưng thông dụng nhất là theo luật  4 câu đầu hoặc 4 câu cuối của bài bát cú. Ví dụ :
-Người hết danh không hết
Đời còn việc vẫn còn
Tội gì lo tính quẩn
Lập những cuộc con con
  ( Vô danh )
                   -Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá,bạc như vôi.
(Mời trầu-Hồ Xuân Hương)

IV.THƠ CỔ PHONG (cổ thể )
Đó là một thể thơ của Trung Quốc, có trước thơ Đường luật,niêm luật không chặt chẽ,giống như thơ tự do của ta.
-Về vần.Bài thơ chỉ cần có vần (bằng hoặc trắc), có một hay nhiều vần, không cần đối. Một thể riêng là Bách lương đài(như lối liên ngâm) thì dù bài ngắn hay dài cũng chỉ theo một vần.
-Về câu.Không hạn định số câu nhưng thường là thể 4 câu, 8 câu hoặc thể hành (trường thiên) nhiều câu,nhiều khổ. Bài thơ có câu dài,câu ngắn gọi là tạp thi.
Số tiếng trong mỗi câu có thể là 3,4 đến 8,9 tiếng(trường đoản cú) nhưng thường là 5 tiêng( ngũ ngôn ) hoặc 7 tiếng (thât ngôn).
-Về luật bằng trắc.phải thích ứng với qui luật âm thanh,phối hợp,xen kẽ bằng trắc cho dễ nghe.
 Ví dụ :       -Năm ngoái ruộng được mùa
Nhà ba bốn cót thóc
Ăn tiêu hãy còn thừa
Bán cho con đi học
(Khuyết danh )
                  
                   - Hôm qua có bạn rượu lại hết
Hôm nay có rượu bạn không biết
Cất đi đợi bạn đến lúc nào
Cùng uống cùng vui trời đất tít
Khi say quên cả ai là ta
Còn hơn lúc tỉnh nhớ mà mệt
(Khuyết danh)

V.THƠ 4 TIẾNG , 6 TIẾNG.
A.Luật : Thông thường các tiếng thứ 2 ,4, 6 nên xen kẽ bằng,trắc. Nhưng nhiều khi cũng có thể châm chước.
B.Cách gieo vần
Thơ 4 tiếng hoặc thơ 6 tiếng thường dùng vần chân,có khi kết hợp vần lưng.Có thể gieo vần liền ,vần cách , hoặc vần hỗn hợp.
1. Vần liền . Vần chân ở  2 câu liền nhau .Thường xen kẽ 2 câu vần bằng tiếp 2 câu vần trắc.
- Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa  tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
                           (Trần Đăng Khoa)

Hoàng hôn nối ngày với đêm
Tình yêu nối anh với em
Bức thư nối hai nỗi nhớ
Đứa con nối chồng với vợ
Còn nối sự thật,ước mơ
Nối người với người ,là thơ
(Thái Bá Tân )
2. Vần cách. Vần chân ở  2 câu cách nhau :
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở thế gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám,úa tàn
  (Trần Nhuận Minh )
3. Vần hỗn hợp ( kết hợp 2 kiểu trên ) :
-Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi
(Khổng Dương )
4. Vần lưng.
Nam mô bồ tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc
Đi học thày đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài nhịn đói
 (Đồng dao )
-Một bài thơ có nhiều khổ thì câu cuối khổ trước nên hiệp vần với câu đầu khổ sau.            -Bài thơ cách luật thì chỉ hiệp vần theo một cách nhất định và nếu chia khổ thì số câu trong một khổ cũng đều nhau.Trường hợp khác thì mỗi khổ trong một bài (hoặc toàn bài )có thể dùng nhiều cách hiệp vần khác nhau.

VI. THƠ 5  TIẾNG và THƠ 7 TIẾNG (không phải thơ Đường luật )
Thơ 5 tiếng hoặc 7 tiếng thường dùng vần chân (bằng hoặc trắc ),hiệp vần theo  kiểu vần liền,vần cách hoặc hỗn hợp,đôi khi có vần lưng. Ví dụ :
1.Vần liền.Thường xen kẽ  2 vần bằng tiếp đến 2 vần trắc.
                …Cột cờ bên Hoàng Thành
Ba Đình nơi Lăng Bác
Vẫn uy nghiêm trầm mặc
Chào đón khách thập phương
Hoàn Kiếm mờ hơi sương
Cụ rùa lên đón gió
Tháp Bút nay còn đó
 Nắn nót viết lên trời…
                     (Thăng Long-Hà Nội--Bùi Công Lương) :      
                   
                    -Lửa leo lét bắt đầu nhóm lửa
Biết bao nhiêu là sự khó khăn
Chỉ đìu hiu một mảnh gió  xuân
Cũng bị sợ lửa khi tắt mất
Nghi ngút khói mặc dầu thổi quạt
Che một bên lại tạt một bên
Khi lửa đã chắc chắn bén lên
Thì mưa gió chi chi cũng cháy
Mưa lún phún lửa càng nóng nẩy
Gió càng cao ngọn lửa càng cao
Núi rừng đều bén cháy ào ào
Lửa nung đỏ cả trời nắng toé…
              (Xung Phong )
2. Vần cách.
Khách hỏi nhà ông đến
Nhà ông đã bán rồi
Vợ lăm le ở vú
Con tấp tểnh đi bồi
Ai trói voi bỏ rọ
Đời nào lợn cạo ngôi
Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng thế này thôi
                            (Tú Xương )        
                    
                   -Bảy năm  về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi,trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông,hai cánh lúa
 Bữa thì em tới,bữa anh sang
                     ***
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn,nên làng gọi Núi Đôi
Em vẫn đùa anh :Sao khéo thế
Núi chồng,núi vợ ,đứng song đôi...
    ( Trích Núi Đôi-Vũ Cao )
3.Vần hỗn hợp.
-Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng thu-Lưu Trọng Lư)
Thơ  cách luật thì toàn bài chỉ theo một kiểu hiệp vần,nếu chia khổ thì mỗi khổ 4 câu hoặc 8 câu.Trường hợp khác thì có thể châm chước.Nếu  câu cuối khổ trước vần với câu đầu khổ sau thì kết nối hoàn chỉnh hơn nhưng cũng có thể gây ra đơn điệu.
Đối với thơ 5 tiếng hoặc 7 tiếng, nếu không muốn gò bó ,chặt chẽ theo luật Đường thì mỗi bài không để 4 câu hay 8 câu. Bài thơ dài quá 8 câu  gọi là thể hành  hay trường thiên,có thể chia thành nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu.

VII.THƠ 8 TIẾNG
A.Luật :
Thể thơ này là  sản phẩm của phong trào thơ mới,không có luật nhất định, có nghĩa là vần điệu tự do hơn. Thường thì trong câu ở cuối có tiếng trắc thì tiếng 3 trắc, tiếng 5 và 6 bằng; ở cuối có tiếng bằng thì tiếng 3 bằng, tiếng 5 và 6 trắc. Nhưng cũng có thể châm chước. Ba tiếng cuối câu không cùng một thanh thì âm điệu hay hơn.
B.Cách gieo vần. Vần chân có thể gieo vần liền,vần cách hoặc hỗn hợp.Trong một khổ thơ 4 đén 6 câu chỉ cần 2 hoặc 3 câu mang vần. Có thể dùng vần lưng.

1. Vần liền :
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách - cố nhiên - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
(Hồ Dzếnh)
                       


                        Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
                       Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
                       Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
                       Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
                       Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
                      Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
                      Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
                      Với cặp báo chuồng bên vô tư lự...
                                 
NHỚ RỪNG  (Thế Lữ)
2. Vần cách :
-Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến,toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết ,lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ,tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh,người ta  đã đông
Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập nhất định thành công
(Thơ chúc tết 1947 của Hồ Chủ tịch )

-Em sẽ chết với mảnh hồn trống đó
Chúa đứng đón em ở cửa thiên đường
Con trả chúa trái tim hồng lãng mạn
Dưới thế gian con dại dột cho chàng
       (Trần Mộng Tú)
Muốn cho thơ tám tiếng giầu âm điệu, người ta còn hiệp vần tiếng 8 câu trên với tiếng 4, 5 hay 6 câu dưới (vần lưng ).Ví dụ:
-Con gái đang thì đã nên con gái
Cái áo em mặc chải chải hoa hồng
Trong yếm dải hồng chuỗi xe con toán
Cái quai dấu chạm em đội trên đầu
Cái nhôi dấu gấp quấn vào đỏ chói
Lỗ miệng  em nói có hai đồng tiền
Như cánh hoa sen giữa ngày mới nở…
          (Ca dao )
   
   Trên đây chỉ nói tóm tắt một số thể thơ thông dụng nhất. Mỗi thể thơ còn có nhiều biến cách , biến thể, biến dạng... khác . Xin giới thiệu vài bài để các bạn tham khảo.
                
              1. CẢNH XUÂN HỒ TÂY
                             (Thuận nghịch độc)

Hồ Tây       cảnh đẹp sắc          xuân sang
Nắng nhạt pha sương giọt       óng vàng
Mờ tỏ         nước in trời           tím biếc
Bổng trầm chuông vọng tiếng ngân vang
Bờ bên       liễu rủ mành          theo gió
Mạn giữa  thuyền đua sóng    nối hàng
Tô điểm    đất trời cùng           tuế nguyệt
Đô thành   chốn đó cảnh          thanh quang

                                            BÙI CÔNG LƯƠNG
-------------
Bài trên có thể đọc theo 4 cách:
-Đọc xuôi ngược toàn bài
-Bỏ 2 tiếng đầu mỗi câu,đọc xuôi
-Bỏ 2 tiếng cuối mỗi câu,đọc ngược
                                                       

                              2. DẠI KHÔN
( Song điệp, nhất vận )
Làm người có dại mới nên khôn
Chớ dại ngây si,chớ quá khôn
Khôn được ích mình,đừng để dại
Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn
Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn
Chớ cậy rằng khôn ,khinh kẻ dại
Gặp thời ,dại cũng hoá nên khôn
        (Nguyễn Bỉnh Khiêm )
 
                     3. SỰ ĐỜI
           (Song điệp- Nhất vận)

               Ai có ngờ đâu cái sự đời
Mà xem vạn sự ở trên đời
   Lo quanh tính quẩn, đời sinh sự
         Nghĩ rộng nhìn xa, sự hiểu đời
                          Đen bạc thói đời tô vẽ sự
                          Bể dâu thế sự đổi thay đời                                                 
                          Đường đời voi chó khi lâm sự
                         Ai có ngờ đâu cái sự đời.

                             BÙI CÔNG LƯƠNG ( 10/2008)


4.NỖI LÒNG NGƯỜI PHỤ NỮ
      BỊ CHỒNG HÀNH HẠ
              (Tập Kiều)
                                    Trời làm chi cực bấy trời
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa
Lỡ từ lạc bước bước ra
Giờ sao tan nát như hoa giữa đường
Ngày vui ngắn chẳng tày gang
Dễ dò rốn biển, khó lường lạch sông
Thôi còn chi nữa mà mong
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Thương tình con trẻ cha già
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau
Còn đường suy nghĩ trước sau
Thì con người ấy ai cầu làm chi
Nhớ khi sấm sét bất kỳ
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn
Búa rìu bao quản thân tàn
Phải cung rầy đã sợ làn cây cong
Lỡ làng nước đục bụi trong
Rày xem phỏng đã cầm lòng hay chưa
Những là lần lữa nắng mưa
Mất công mười mấy năm thừa ở đây
Liệu mà cao chạy xa bay...

                                   BÙI CÔNG LƯƠNG
   ---------------------------
 Tâp Kiều là một lối thơ mà tác giả tập hợp từ những câu trong Truyện Kiều để làm thành một bài thơ lục bát hoàn chinh theo một chủ đề tuỳ  ý. Qui tắc :
       -Không được chọn hai câu liền nhau  .                                                                  
       -Giữ nguyên văn câu Kiều, không thêm bớt,chỉnh sửa.

Trên đây chỉ tóm tắt một số khái niệm chung về một số thể thơ.Sau này soạn giả có thể sẽ bàn chuyên đề về từng thể thơ .                                    
                      
                   BÙI CÔNG LƯƠNG  ( abuicongluong@gmail.com )  biên soạn (tháng 8/2014)